Chương mở đầu: Giả thuyết về hạt V
“Năm 2073, tròn 50 năm kể từ khi con người phát hiện ra hạt V, một loại hạt được cho là không có khối lượng, không có kích thước, không mang điện tích và bao trùm lên mọi phân tử, nguyên tử và đã phá vỡ tất cả mọi định luật vật lý lượng tử đương thời. Kể từ đó, chúng ta đã có những tiến bộ vượt bậc, những phát minh mới trong việc làm chủ vũ trụ, đưa những con tàu của chúng ta di chuyển nhanh hơn tiến gần với vận tốc của ánh sáng. Tuy nhiên không chỉ dừng lại ở đó, hôm nay chúng ta đã chính thức lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, chứng minh rằng vận tốc ánh sáng chưa phải là thứ nhanh nhất trong vũ trụ. Nhờ không mang khối lượng mà hạt V có thể di chuyển với vận tốc của ánh sáng. Bằng cách đưa hạt V di chuyển thành dòng với vận tốc cực đại đó và đưa con tàu của chúng ta ghé nhờ dòng chảy này, kết hợp với vận tốc thực của con tàu, chúng ta đã đi nhanh hơn ánh sáng 1,6 lần.”
- Phát biểu của Jack, một nhà khoa học trẻ tuổi, tại hội nghị Vật lý lượng tử thế giới được tổ chức bởi VAVO, công ty hàng đầu thế giới chuyên nghiên cứu và ứng dụng hạt V.
Năm mươi năm trước, một nhà kinh doanh trẻ tuổi tại Việt Nam đã tình cờ phát hiện ra hạt V trong một lần ngắm nhìn bầu trời đêm. Ông đang sử dụng kính viễn vọng quan sát một vật thể di chuyển tự do trong không gian thì đột nhiên dường như vật thể đó biến mất như thể tan biến vào hư không. Nhưng sau đó, mất chừng 10 phút tìm kiếm, ông phát hiện ra vật thể đó không hề biến mất mà được dịch chuyển đến một vị trí cách đó 4500 km. Phát hiện này đã khiến cho các nhà khoa học khắp nơi trên thế giới đều sửng sốt bởi nó giống như một bước nhảy không gian, thứ mà chỉ có trên phim ảnh. Sau đó, một con tàu tự lái được phóng lên đúng vị trí vật thể kia đã được dịch chuyển đi và cũng như vậy, con tàu ngay tức khắc được dịch chuyển đến vị trí cách đó 4500 km. Các nhà khoa học phát hiện ra, dường như có một lực nào đó đẩy mọi vật thể đi với vận tốc ánh sáng khi bị rơi vào dải không gian bí ẩn này. Cuộc hành trình sẽ luôn luôn kết thúc tại một điểm mà ở đó vật thể sẽ quay lại trạng thái ban đầu, không có chút tàn dư của bất kỳ tác động bên ngoài nào. Tiếp tục cho tàu vũ trụ lần theo điểm xuất phát của dải không gian này, dường như điểm đầu của chúng hướng thẳng vào trung tâm của một siêu hố đen cách đó 100.000 năm ánh sáng. Quan sát kỹ sẽ thấy có một lượng lớn vật chất của hố đen đang bị chảy vào dải không gian này và biết mất. Thật kỳ lạ khi một dải không gian có đường kính vỏn vẹn 1km không hề mang năng lượng lẫn khối lượng như thế lại có thể đủ sức thắng lại lực hút vô cùng lớn của hố đen, thứ có thể nuốt chửng cả ánh sáng. Các nhà khoa học không tin là dòng vật chất của hố đen lại tan vào hư vô mà không để lại dấu vết như thế. Nhưng họ không thể tìm thấy bất cứ đường quay trở về của chúng hay sự xuất hiện trở lại của chúng trên suốt chiều dài của dải không gian. Ba mươi năm sau đó, giới khoa học vẫn đang loay hoay với lời giải đáp “dải không gian đó là gì?”. Không có bất kỳ một thiết bị đủ tân tiến nào có thể nhìn sâu hơn vào không gian đó. Vẫn chưa tìm thấy bất kỳ dấu hiệu tồn tại nào của hạt hay năng lượng trong đó. Bất kể mọi thứ, kể cả ánh sáng hay những hạt Quark cơ bản nhất khi rơi vào nó cũng đều bị đẩy trôi về phía cuối con đường. Các nỗ lực tiếp cận “dải không gian” gần hố đen cũng thất bại khi mọi tàu vũ trụ với lực đẩy tân tiến nhất vẫn không thể đủ sức thắng lại lực hấp dẫn của hố đen. Chúng ta chỉ đành đứng ngoài quan sát những luồng vật chất đen chảy vào bên trong dải không gian ấy và biến mất vào hư vô. Không tìm thấy dấu vết của chúng ở cuối con đường. Mỗi một luồng vật chất hố đen như vậy chảy vào dải không gian tương đương với vật chất của gần 10 hệ mặt trời của chúng ta cộng lại. Vậy chúng đã đi đâu? Phải chăng chúng chính là thứ đã duy trì cho sự tồn tại của dải không gian này.
Mọi thứ đã tiếp tục như vậy cho đến năm 2055, một thiếu niên thiên tài mang tên Jack đã đưa ra một giả thuyết. Cậu cho rằng dải không gian này vẫn luôn tồn tại một thứ hạt cơ bản hơn mọi loại hạt chúng ta đã biết. Nguyên nhân chúng ta không thể đo được sự tồn tại của chúng là bởi vì chúng tồn tại độc lập và không có những tương tác như bất cứ hạt nào khác trong vũ trụ. Nếu giả thuyết này chỉ có vậy thì rất nhiều các nhà khoa học khác cũng đã từng nghĩ tới. Cậu còn cho rằng, loại hạt này vẫn luôn tồn tại xung quanh chúng ta, xung quanh mọi vật chất trong vũ trụ và lấp đầy cả vũ trụ. Mọi năng lượng, các hạt cơ bản nhất cấu thành vật chất chỉ là một phần rất nhỏ của vũ trụ. Vũ trụ vật chất mà chúng ta cảm nhận được tạo thành là do một nguyên nhân nào đó khiến cho một vài hạt này tương tác với nhau và tạo nên vụ nổ Big Bang. Hiện tượng xảy ra tại điểm đầu của dải không gian, nơi tiếp giáp với hố đen là do quá trình vật chất bị chuyển đổi ngược so với lúc chúng hình thành ở thời điểm vụ nổ lớn. Điều đó có nghĩa, vật chất hố đen đang quay về đúng với dạng ban đầu của chúng và vô tình tạo ra con đường không gian trên.
Giả thuyết của Jack tuy không nhận được sự đồng tình nào của các nhà khoa học khác nhưng cũng không ai phản bác giả thuyết của cậu. Bởi lẽ, cậu bé thiên tài Jack là người đầu tiên trong lịch sử đạt giải Noel vật lý khi mới chỉ ở tuổi 13. Cậu đã nêu lên một giả thuyết cho phép tăng tốc tàu vũ trụ lên gấp ba lần. Công nghệ tên lửa đẩy hiện tại của con người mới chỉ đạt tốc độ bằng một phần năm tốc độ ánh sáng. Tàu càng bay nhanh hơn nữa thì khối lượng bản thân của nó tăng lên đáng kể khiến cho nguồn năng lượng cung cấp không đủ. Jack đã dành sự hứng thú đặc biệt của mình khi tiếp cận Thuyết tương đối của Einstein. Khi bạn bè đồng trang lứa còn đang học viết và bảng tính thì cậu bé đã am hiểu về sự tương đương giữa khối lượng và năng lượng. Vì khối lượng và năng lượng là tương đương, nên việc làm cho một vật chuyển động nhanh hơn cũng là làm tăng năng lượng của nó, thành ra làm tăng khối lượng của nó. Nhưng cậu đã có một ý tưởng! Cậu nhận định rằng nếu một vật tự quay với tốc độ rất cao, đến nỗi mà tốc độ các phân tử ngoài cùng của vật quay đạt gần tốc độ ánh sáng, chúng sẽ trở nên vô cùng nặng. Tuy nhiên, chúng ta sẽ đặt vào bên trong trung tâm vật một thứ gọi là “Nuốt năng lượng”. Khi tốc độ tự quay của vật chưa đủ sẽ không có hiện tượng gì xảy ra. Nhưng khi tốc độ đủ cao, lực quán tính cộng thêm năng lượng của các phần tử quay sẽ kích hoạt vật “Nuốt năng lượng” và tốc độ quay của vật đột ngột giảm xuống. Nhờ sự gửi năng lượng này mà vật quay của cậu được tích năng lượng mà không gây ra sự tăng khối lượng. Nghe thì có vẻ đơn giản là vậy nhưng vật quay được tạo ra phải bằng các dòng phản ứng nhiệt hạch. Còn vật “Nuốt năng lượng” được ví với vật chất hố đen nhưng chúng không mang năng lượng. Cậu đã kêu gọi các nhà khoa học trên thế giới chế tạo vật “Nuốt năng lượng” này nhưng không thành bởi quá trình hết sức nguy hiểm. Một sai sót nhỏ có thể vô tình tạo ra vi hố đen và hủy hoại nhân loại. Hơn nữa lực quán tính quá lớn của các dòng phản ứng nhiệt hạch nếu không được kiểm soát chặt chẽ sẽ tạo nên vụ nổ lớn hơn tất cả những phản ứng từ trước đến nay trên trái đất.
Nhưng chỉ hai năm sau đó, cậu đã chứng minh với cả thế giới thấy rằng việc chế tạo không hề tiềm ẩn nguy cơ như các nhà khoa học dự đoán. Tại hội nghị triển lãm các phát minh nhà vật lý trẻ tổ chức năm 2052, người ta đã phải sửng sốt khi chứng kiến một vật thể hình cầu phát sáng quay nhanh đến mức không có một máy quay nào ở đó có thể ghi lại được quá trình của nó. Sau đó đột nhiên khối cầu quay chậm lại và người ta có thể thấy rõ đó không phải khối cầu thông thường mà là các chuỗi phản ứng đang diễn ra bao lấy một vật thể nhỏ bên trong. Lúc này mọi ánh nhìn mới bắt đầu hướng về một cậu bé chỉ mới ở độ tuổi 12-13. Và kể từ thời điểm đó, giả thuyết của cậu mới bắt đầu được chú ý đến nhiều hơn. Mặc dù cậu vẫn chưa thể tìm cách giữ nguyên khối lượng của quả cầu khi tăng năng lượng cho nó. Nhưng các phương trình toán học của cậu đã chỉ ra điều đó. Có một vài công thức cậu vẫn chưa thể chứng minh nhưng không sao cả, vì cậu đã cảm nhận được điều cậu cho là sẽ xảy ra, chỉ sớm hay muộn mà thôi. Một vài nhà khoa học cũng bắt đầu nghiêm túc nghiên cứu về giả thuyết này. Tuy nhiên họ đã nhanh chóng bỏ cuộc vì càng nghiên cứu, càng dẫn họ đến với những điều phi lý. Mặc dù cậu bé là một thiên tài xuất chúng, không ai phủ nhận được điều đó nhưng việc chế tạo thành công “cỗ máy quay” không có nghĩa cậu sẽ đúng. Và cho dù cậu có thể làm được điều mà từ trước đến nay chưa ai có thể làm được là “phá vỡ” Thuyết tương đối hẹp thì hành trình đưa con tàu lên 60% vận tốc ánh sáng vẫn còn rất xa vời. Nhưng chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ cho cả thế giới thấy nên dành sự chú ý nhất định nào đó đến các giả thuyết của cậu. Đặc biệt khi cả nhân loại đang dậm chân tại chỗ trong việc lý giải sự xuất hiện của dải không gian vô hình bí ẩn.
Cũng có một vài nhà khoa học đưa ra các giả thuyết khác nhau về sự tồn tại của dải không gian này. Một vài giả thuyết đã đứng vững sau nhiều năm. Nhưng sau đó, tất cả chúng đều bị bác bỏ do được chứng minh là không thể. Tuy nhiên giả thuyết của Jack đã đi ngược lại với tất cả các giả thuyết trước đó. Một giả thuyết về một loại hạt mà không thể chứng minh được sự tồn tại của nó. Do đó không thể bác bỏ mà cũng chẳng thể công nhận.
Trải qua gần 10 năm kể từ khi giả thuyết thứ hai của mình ra đời, cậu bé Jack ngày nào đã hiện thực hóa được giả thuyết đầu niên thiếu của mình năm xưa. Các con tàu vũ trụ đã đạt được vận tốc 0,6 lần vận tốc ánh sáng. Không chỉ vậy, các “vật quay” này cũng là tiền đề nghiên cứu để phát triển những tấm khiên hấp thụ năng lượng dùng để chế tạo vỏ tàu. Các con tàu có khả năng tiến vào vùng không gian chứa nhiều bụi khí mà không cần phải giảm tốc độ. Chúng cũng đủ cứng để có thể chịu được va chạm với các thiên thạch nhỏ nếu vô tình va chạm phải. Người ta đã thử dùng những quả tên lửa với sức công phá lớn bắn vào vỏ tàu nhưng chỉ sau vài giây, họ chỉ nhận lại được xác vỏ của tên lửa. Gần như không thể ghi nhận sự có mặt của một vụ nổ do tên lửa gây ra. Mọi năng lượng sinh ra đều bị hấp thụ quá nhanh đến nỗi một con chó đứng cách đó 5m cũng chỉ giật mình sủa lên vài tiếng do tưởng những khối kim loại chỉ đang va vào nhau mà thôi. Về giả thuyết thứ hai, mặc dù không thể chứng minh được sự tồn tại của các hạt phi vật chất, nhưng các thí nghiệm cho thấy có thể tạo ra bất kỳ dải không gian nào tại bất kỳ địa điểm nào trong vũ trụ giống với dải không gian từng được phát hiện gần 50 năm về trước. Các dải không gian thí nghiệm này chỉ dài vài micromet nhưng cần được duy trì bằng năng lượng từ các phản ứng nhiệt hạch. Các phản ứng nhiệt hạch có thể đủ năng lượng cung cấp cho cả một thành phố trong gần mười năm giờ đây có thể bị ngốn sạch chỉ sau vài giây duy trì dải không gian này. Chi phí để tạo ra các dải không gian này là vô cùng tốn kém nhưng cuối cùng thì chúng ta đã không cần phải tiến gần đến hố đen để tìm hiểu sự thật. Đúng như Jack đã dự đoán, mọi vật chất siêu nặng đã hoàn toàn biến mất khi đi vào dải không gian này. Các vật chất siêu nặng đó được Jack tạo ra từ các phản ứng nhiệt hạch và chúng tương đương với các siêu vật chất trong hố đen. Các hạt vật chất này nhanh chóng bị hấp thụ bởi một quá trình phức tạp mà Jack đã dành những năm tháng qua để tính toán và thí nghiệm. Giờ đây đại đa số các nhà khoa học đều chấp nhận quan điểm của Jack. Họ đặt tên cho hạt đó là hạt V, chữ cái đầu tiên của tên đất nước nơi sinh ra nhà kinh doanh trẻ đã phát hiện ra dải không gian bí ẩn. Như Jack từng nhận định khi quan sát sự biến mất của hạt siêu vật chất:
“Chúng không thể tự dưng biến mất được. Hoặc là chúng đã chuyển sang dạng vật chất mới, hoặc là chúng đã thực hiện một bước nhảy không gian đến một nơi nào đó chúng ta chưa phát hiện ra. Nhưng tôi thiên về dự đoán thứ nhất hơn, bởi lẽ tôi không tin vào bước nhảy không gian”.
Đúng vậy, tin vào bước nhảy không gian còn vô lý hơn là tin vào giả thuyết của Jack. Tuy rằng vụ nổ Big Bang chỉ là trên giả thuyết nhưng cho dù nó đúng hay không thì cái gì đã tạo nên vật chất để rồi hình thành nên vũ trụ như bây giờ? Mọi năng lượng và vật chất không thể tự dưng sinh ra và mất đi được, chúng chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác. Tin vào giả thuyết của Jack cũng sẽ giải thích được thời điểm trước vụ nổ Big Bang. Trước đó, vũ trụ gần như là êm ả với một màu đen tuyệt đối. Không hề có bất kỳ sự tồn tại nào của “vật chất” mà chúng ta từng biết đến. Nhưng có một vài hạt V hoặc hàng tỷ hạt V nào đó trong một điểm không gian rất nhỏ đã tác động lên lẫn nhau hoặc tác động lên chính nó và giải phóng ra một dạng năng lượng, chuyển đổi thành dạng mới bắt đầu bằng vụ nổ Big Bang. Nhưng xác suất để xảy ra một vụ nổ như vậy là vô cùng nhỏ. Do đó thỉnh thoảng trong vũ trụ mới xảy ra các vụ nổ này và chúng cách nhau rất xa. Vũ trụ vật chất mà chúng ta biết chỉ là một trong những vụ nổ ấy. Vẫn còn các vụ trụ vật chất khác được sinh ra đâu đó trong vũ trụ nói chung. Nếu giả thuyết trên của Jack đúng thì mỗi điểm vô cùng nhỏ trên không gian của toàn vũ trụ đều chứa nguồn năng lượng vô cùng lớn, bằng tất cả vật chất trong vũ trụ của chúng ta cộng lại. Điểm đó còn nhỏ hơn kích thước của các hạt nguyên tử, và có thể còn nhỏ hơn cả các hạt Quark cơ bản. Đúng là một giả thiết hết sức điên rồ! Điều đó chả khác nào nếu thế giới của chúng ta được thu nhỏ lại, quay trở về trạng thái ban đầu thì chúng chỉ bằng một điểm vô cùng nhỏ của vũ trụ hạt V. Nhỏ đến mức bạn sẽ không bao giờ hình dung được nó nhỏ đến mức nào. Nếu như đối với chúng ta hạt Quark là hạt cơ bản và nhỏ nhất thì mỗi không gian rộng bằng hạt Quark đã chứa hàng tỷ tỷ các điểm không gian hạt V hoặc bao nhiêu nữa không thể đếm được. Nếu tất cả các điểm đó đều trở thành vụ nổ Big Bang thì số lượng vũ trụ vật chất được sinh ra sẽ là vô cùng!
Jack đã giải thích với thế giới rằng hạt V không phải là hạt có khối lượng và kích thước bằng không. Thực tế, không hề có khái niệm kích thước và khối lượng trong vũ trụ hạt V. Do đó, cũng không có khái niệm về không gian và vận tốc đối với chúng. Còn thời gian, chúng chỉ là phép đo của các biến đổi trong thế giới vật chất mà thôi. Cũng có một vài giả thuyết khác anh đã nghĩ tới. Một trong số đó là một giả thuyết được bẻ cong đi một chút từ giả thuyết hai rằng, không phải mỗi một điểm tập hợp hạt V trong vũ trụ đều đủ sức sinh ra một vũ trụ vật chất. Chúng có thể chỉ sinh ra được một phần nhỏ vật chất của vũ trụ. Sau đó bằng cách nào đó chúng lôi kéo được các điểm tập hợp hạt V khác trong vùng không gian lân cận cùng tham gia “vụ nổ”. Cuộc lôi kéo có thể tạo ra phản ứng hạt V rất lớn, tạo ra phản ứng dây chuyền kéo một lượng lớn hạt V trong vũ trụ vào một điểm và giải phóng thành vật chất như chúng ta đã biết. Giả thuyết được bẻ cong này nghe có vẻ cũng hợp lý. Không ai biết cần bao nhiêu hạt V để tạo ra vũ trụ này. Có thể là một khoảng không gian hạt V rộng bằng kích thước của phân tử, của một quả bóng hay hơn thế rất nhiều, bằng một thiên hà hay một phần của vũ trụ. Jack cũng chỉ đưa ra các giả thuyết của mình bằng các suy đoán. Cũng có thể các hạt V chỉ đơn giản là các hạt cơ bản, cơ bản hơn hạt Quark rất nhiều và là tiền đề tạo nên các hạt Quark. Không hề có vũ trụ nào sinh ra từ việc giải phóng năng lượng từ một điểm của các hạt V nào cả. Sự kéo dãn vũ trụ như chúng ta đo được cũng không phải do hệ quả của một vụ nổ. Jack đã từng nghĩ đến giả định hình thành vũ trụ này khi lên 10 tuổi. Lúc đó anh vẫn chưa có ý tưởng về sự tồn tại của hạt V. Anh cho rằng mọi vật chất sinh ra là nhờ một cái gì đó cơ bản hơn nữa nhưng anh chưa giải thích được. Thứ cơ bản này bao trùm toàn vũ trụ và bằng cách nào đó chúng hợp lại và tạo nên vật chất. Vật chất sinh ra từ thứ cơ bản này của toàn vũ trụ có vẻ rất lớn nhưng thực tế không nhiều. Vũ trụ mà chúng ta quan sát được có thể chỉ là một tập hợp của các vật chất gần nhau hơn trong toàn vũ trụ. Còn có các vùng tập hợp khác tạo nên các vũ trụ khác. Sự giãn nở của vũ trụ mà chúng ta thấy chẳng qua chỉ là sự giãn ra của một vùng tập hợp vật chất. Nhưng vì chúng quá rộng lớn, đến nỗi mỗi tập hợp đã chứa đến hàng tỷ tỷ các thiên hà nên chúng ta chưa bao giờ quan sát được vùng không gian bên ngoài chúng. Giả thuyết thứ ba này đã từng được Jack tin tưởng trong vài năm. Ban đầu, anh cho rằng dải không gian thực chất là dải các hạt V đang di chuyển thành dòng. Nhưng nếu các hạt V mang năng lượng cực lớn sẽ cần rất nhiều năng lượng để di chuyển chúng. Nếu chỉ một điểm không gian V đã mang năng lượng của cả vũ trụ thì không có nguồn năng lượng nào sinh ra từ vũ trụ vật chất đủ sức di chuyển điểm đó chứ đừng nói là cả một dòng hạt V dài gần 100.000 năm ánh sáng. Do đó mà giả thiết thứ hai đang mâu thuẫn với lời giải thích về hiện tượng dòng hạt V di chuyển. Tuy nhiên điều gì đã khiến cậu thay đổi suy nghĩ? Cậu đã dành 3 năm sau đó nghiên cứu về hiện tượng các siêu vật chất hố đen dường như biến mất đột ngột khi tiếp xúc với dải không gian. Nếu giả thuyết thứ 3 cậu đang tin tưởng là đúng thì hiện tượng này không thể xảy ra. Không cần nhiều năng lượng từ hố đen như vậy để duy trì dải hạt V. Nếu các siêu vật chất hố đen quay về trạng thái hạt V ban đầu thì phải giải phóng ra rất nhiều năng lượng thừa. Nhưng không hề có bất cứ dấu hiệu nào cho thấy năng lượng thừa này đã quay trở về hố đen. Do đó trong Jack đã dần hình thành nên ý tưởng hoàn toàn mới lạ và trở thành giả thuyết thứ 2 nổi tiếng. Nếu giả thuyết thứ hai này của Jack đúng thì năng lượng của siêu vật chất hố đen quá nhỏ bé nếu so với các hạt V. Chúng sẽ nhanh chóng bị hấp thụ vào trong và biến mất. Jack tin tưởng rằng hạt V không mang khối lượng nên chúng dễ dàng di chuyển trong không gian. Vận tốc của chúng có thể lên đến vô cùng. Nhưng nhờ không có khối lượng mà chúng không tác động lên thế giới vật chất. Tuy nhiên bằng một cách nào đó mà siêu vật chất của hố đen đã bị hạt V tác động lên và hấp thụ chúng. Những siêu vật chất chưa kịp bị nuốt chửng sẽ tạo nên khối lượng tạm thời cho những hạt V này. Khối lượng tạm thời này là rất lớn nhưng so với hạt V thì không đáng kể. Nói một cách chính xác chúng không ảnh hưởng đến hạt V mà chỉ ảnh hưởng đến chúng ta. Chúng ta cảm nhận được chúng di chuyển là vì chúng ta đang sống trong thế giới vật chất. Phần siêu vật chất đã bị hấp thụ có thể ở bất cứ vị trí nào trong vũ trụ hoặc không hề có khái niệm về vị trí ở đây. Jack suy đoán rằng do sự độc lập của hai thế giới hạt V và hạt vật chất nên các quy luật cũng tồn tại song song và độc lập lẫn nhau. Bên thế giới hạt vật chất vẫn tuân theo các quy luật cơ bản như khối lượng, vị trí, không gian, thời gian và vận tốc. Bên thế giới hạt V thì không tồn tại bất kỳ khái niệm cơ bản nào nên khối lượng dù là bao nhiêu, tốc độ có lớn mức nào, dù tiến tới vô cùng cũng đều trở nên vô nghĩa. Đó là nguyên nhân các hạt vật chất của hố đen chưa kịp bị hấp thụ vào thế giới hạt V vẫn phải tuân theo các giới hạn của thế giới vật chất. Chúng vẫn sẽ mang năng lượng và khối lượng nhưng không thể đo đếm được. Một vật mang khối lượng vô cùng lớn như vật chất hố đen bỗng nhiên chỉ được coi như một photon trong thế giới vật chất. Do đó các hạt vật chất hố đen đã di chuyển với tốc độ của ánh sáng. Các vật chất thông thường khi rơi vào các dòng này cũng chịu tác động của dòng năng lượng và khối lượng vô cùng lớn này. Đến cuối con đường, khi vật chất hố đen đã bị hấp thụ hết, vật chất thông thường thoát ra và quay trở về trạng thái ban đầu.
Cả thế giới vẫn còn hoài nghi các giả thuyết của Jack. Mặc dù anh là người duy nhất đã thành công tạo ra dải không gian mà anh cho là tuân theo quy luật thứ hai của mình. Nhưng những định luật vật lý anh sử dụng có tới non nửa do anh tự phỏng đoán và chưa được chứng minh. Các định lý còn lại được pha trộn khó hiểu từ những định luật trước đó của thế giới. Một số định luật khác không liên quan đến vũ trụ vật chất nên không kiểm chứng được. Con người thường không tin vào những thứ họ không hiểu. Không ai hiểu hết được các công thức mà anh sử dụng. Do đó, không còn cách nào khác là anh phải chứng minh chúng!